giống bưởi da xanh bến tre
1.6 Một số giống bưởi và tình hình sản lượng Bưởi việt nam 10 1.6.1 Bưởi Năm Roi 11 1.6.2 Bưởi Phúc Trạch 12 1.6.3 Bưởi da xanh 13 1.6.4 Bưởi Diễn 15 1.6.5 Bưởi Thanh Trà 15 1.6.6 Bưởi Đoan Hùng 16 1.6.7 Bưởi Tân Triều Biên Hòa 17 1.6.8 Bưởi lông cổ cò 18 1.7 Tình hình về sản lượng bưởi ở Việt Nam 19 Chương 2 TỔNG QUAN VỀ TINH DẦU VỎ BƯỞI 21
Vườn bưởi da xanh của Bến Tre sẽ xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Hiện nay, toàn vùng ĐBSCL có khoảng 32.000 ha trồng bưởi, cho sản lượng khoảng 369.000 tấn; trong đó tỉnh Bến Tre có gần 10.000 ha, được trồng nhiều ở TP Bến Tre, huyện Châu Thành, Giồng Trôm, Ba Tri…
Bưởi da xanh Bến Tre đã được Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn công nhận là giống quốc gia và được thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước ưa chuộng vì phẩm chất ngon đặc trưngHiểu được giá trị của trái bưởi da xanh chúng tôi là đơn vị phân phối bưởi đến tay khách hàng, để bạn được thưởng thức thứ quà Bến Tre.
Vay Tiền Nhanh Cầm Đồ.
Tỉnh Bến Tre có hơn hécta trồng cây ăn quả các loại tập trung chủ yếu ở các huyện vùng ngọt Chợ Lách, Châu Thành và một phần các huyện vùng lợ thành phố Bến Tre, huyện Giồng Trôm, Mỏ Cày Nam và Mỏ Cày Bắc với nhiều chủng loại trái cây nổi tiếng chất lượng cao. Trong các loại trái cây được xem là đặc sản, chất lượng cao của Bến Tre thì bưởi da xanh thuộc vào nhóm có tiềm năng và lợi thế cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Trái bưởi da xanh có dạng hình cầu, nặng trung bình từ 1,2 kg/trái. Khi chín, vỏ trái có màu xanh đến xanh hơi vàng, dễ lột và khá mỏng 14-18mm; tép bưởi màu hồng đỏ, bó chặt và dễ tách khỏi vách múi; nước quả khá, vị ngọt, không chua; mùi thơm; không hạt đến khá nhiều hạt; tỷ lệ thịt đạt trên 55%. Ở Bến Tre, bưởi da xanh được trồng khá phổ biến với diện tích ha, và cũng như các loại trái cây đặc sản khác, được phân bố ở khắp các vùng ngọt, lợ, trong đó 32,26% diện tích bưởi cho trái với năng suất 9-14 tấn/ha. Bưởi da xanh là loại cây ăn trái rất khó tính, đòi hỏi người trồng phải biết cách trồng và chăm sóc, phải kỹ lưỡng, chịu khó chăm chút từng ly từng tí thì sản lượng thu hoạch mới cao và cây mới sống được lâu. Giống bưởi da xanh có nguồn gốc xuất xứ từ đâu? Câu hỏi này hiện chưa có lời giải thoả đáng. Có người nói bưởi da xanh xuất xứ từ xã Mỹ Thạnh An, thành phố Bến Tre, nhưng cũng có người cãi lại, cho rằng giống bưởi “quý tộc” này chính gốc ở huyện Mỏ Cày Bắc, đã xuất hiện từ đầu thế kỷ XX. Cho dù xuất xứ từ đâu thì đối với người Bến Tre bưởi da xanh vẫn là loại trái cây quý, thường dùng làm quà biếu vào các dịp lễ, tết. Giá trị của trái bưởi da xanh nằm ở chỗ nó không chỉ là món ăn ngon và bổ dưỡng, mà còn có thể được xem là bài thuốc phòng và trị bệnh do thành phần dinh dưỡng có chứa nhiều loại vitamin, khoáng chất vi lượng và đa lượng, kể cả một số hoạt chất đặc biệt giúp phòng ngừa bệnh như bệnh phổi, tim, gan,… rất hiệu quả. Biết được giá trị dinh dưỡng và phòng trị bệnh của bười da xanh nên người Bến Tre dùng trái bưởi da xanh hầu như không bỏ thứ gì, từ phần ruột cho đến phần vỏ đều có thể ăn tươi múi bưởi hoặc chế biến vỏ bưởi. Bưởi da xanh Bến Tre đã được Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn công nhận là giống quốc gia và được thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước ưa chuộng vì phẩm chất ngon đặc trưng. Tuy nhiên, việc đăng ký thương hiệu Bưởi da xanh còn rất ít. Ngoài ông Đặng Văn Rô Ba Rô ở Mỏ Cày Bắc đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp thương hiệu bưởi da xanh BR99, còn lại 3 tổ chức, cá nhân đang làm thủ tục xin đăng ký thương hiệu là ông Hai Hoa huyện Chợ Lách, Nông Phú Điền phường 8, thành phố Bến Tre và Hợp tác xã Bưởi da xanh Mỹ Thạnh An thành phố Bến Tre. Trong tương lai, bưởi da xanh Bến Tre sẽ còn phát triển mạnh mẽ cả về diện tích lẫn chất lượng trái và từ đó mở rộng hơn nữa thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước. Đóng vai trò chủ đạo trên con đường phát triển này là chương trình canh tác bưởi da xanh theo các tiêu chuẩn Viet GAP và Global GAP và Chương trình phát triển trồng mới hécta bưởi da xanh tỉnh đang triển khai. Hiện tại, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bến Tre đã hoàn chỉnh quy trình kỹ thuật trồng và chăm sóc bưởi da xanh phục vụ dự án phát triển hécta. Bên cạnh đó, Sở cũng đang xây dựng dự án xác lập quyền và quản lý nhãn hiệu tập thể “Bến Tre” cho trái bưởi da xanh. Đây là một bước đi quan trọng nhằm tạo thế mạnh mới cho trái bưởi da xanh trên đường chinh phục thị trường. Nhưng bấy nhiêu chưa đủ, muốn mở rộng thị trường xuất khẩu đồng thời để đáp ứng các yêu cầu ngày càng khó của thị trường trong nước, thì nhất thiết trái bưởi da xanh Bến Tre phải được trồng và tiêu thụ theo quy trình khép kín của Viet GAP và Global GAP. Bưởi Da Xanh Bến Tre – vỏ xanh, ruột hồng và không hạt Trong cả 2 chương trình phát triển nêu trên, Website Bưởi Da xanh Bến Tre đều đóng vai trò quan trọng làm cầu nối để độc giả xa gần tiếp cận và tìm hiểu về bưởi da xanh, để hình ảnh đặc sản bưởi da xanh của Bến Tre được phổ biến rộng rãi bên cạnh các giống bưởi nổi tiếng trong nước và các loại trái cây đặc sản khác. Hơn thế, Website còn tạo điều kiện giúp trái bưởi da xanh vươn xa ra ngoài lãnh thổ Việt Nam, đi khắp năm châu, góp mặt trên bản đồ cây trái ngon toàn cầu.
Theo báo cáo đánh giá giữa kỳ thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2021-2025 của Bến Tre, đến nay, toàn tỉnh có 67 tổ hợp tác THT, 67 hợp tác xã HTX tham gia vào chuỗi giá trị; có ha sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ, GAP và tương đương. Trong đó, dừa ha; cây ăn trái 678,64 ha, thủy sản ha. Tỉnh đã cấp mới và duy trì 28 vùng trồng được gắn 59 mã số với diện tích 550,18 ha trên bưởi, chôm chôm, xoài và sầu riêng. Trong đó Bưởi da xanh có 16 vùng trồng gắn 30 mã số diện tích ha; chôm chôm có 3 vùng trồng gắn 8 mã số diện tích 32,05 ha; xoài có 5 vùng trồng gắn 17 mã số diện tích 52,38 ha; sầu riêng có 3 vùng trồng gắn 3 mã số diện tích ha và nhãn có 1 vùng trống gắn 1 mã số diện tích 9 ha. Sản phẩm dừa Bến Tre Cơ cấu cây trồng, vật nuôi kém hiệu quả được chuyển sang đối tượng nuôi, trồng mới hiệu quả cao hơn, góp phần nâng cao chất lượng, giá trị và sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp, nâng cao hiệu quả trên diện tích đất canh tác. Công tác triển khai đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp được chủ trọng, nhất là việc tạo lập, quản lý và phát triển các chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm bản địa. Đến nay, toàn tỉnh có 46 nhãn hiệu cộng đồng, 4 doanh nghiệp đạt giải Vàng chất lượng Quốc gia, góp phần khẳng định giá trị, thương hiệu và nâng sức cạnh tranh trên thị trường. Cụ thể, 6 chỉ dẫn địa lý gồm dừa xiêm xanh, bưởi da xanh, sầu riêng, tôm càng xanh, xoài tứ quý và cua biển, 9 nhãn hiệu chứng nhận có rượu Phú Lễ, bò Ba Tri, heo Mỏ Cày Nam, xoài Tứ quý Thạnh Phú, tôm biển, tôm càng xanh, cua biển, chôm chôm, gà nòi lai tàu. Phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hướng bền vững, an toàn với quy mô trang trại gắn với bảo vệ môi trường. Toàn tỉnh có 12 trang trại và có 496 THT chăn nuôi. Chăn nuôi bò, gia cầm phát triển ổn định, chăn nuôi heo có nhiều chuyển biến, đang thực hiện thí điểm vùng sản xuất tập trung chăn nuôi heo gắn với phát triển chuỗi giá trị trên địa bàn huyện Giồng Trôm; thực hiện gắn kết với các doanh nghiệp kinh doanh đầu vào, đầu ra sản phẩm, cơ sở giết mổ, chế biến theo hướng phát triển bền vững. Bên cạnh đó, công tác quản lý chất lượng giống, thuốc, thức ăn, chế phẩm sinh học, quản lý môi trường được quan tâm thực hiện, góp phần đưa năng suất, chất lượng và hiệu quả nghề nuôi tăng qua các năm. Nuôi trồng và khai thác thủy sản tiếp tục phát triển, sản lượng và chất lượng thủy sản hàng năm đều tăng. Trung tâm cây giống, hoa kiểng Chợ Lách đã được thành lập, đến nay thực hiện bình tuyển được 122 cây đầu dòng và 591 vườn cây đầu dòng, đạt 70% cây giống có nguồn gốc sản xuất từ các vườn cây đầu dòng được công nhận đủ diều kiện, đạt yêu cầu chất lượng. Đề án đầu tư phát triển Trung tâm dừa Đồng Gò - Bến Tre trở thành Trung tâm nghiên cứu, phát triển dừa mang tầm quốc gia đang hoàn chỉnh đề cương để trình Hội đồng thẩm định. Theo ghi nhận thực tế, thời gian qua, tại Bến Tre, phát triển nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao UDCNC đạt kết quả khả quan. Ước đến giữa nhiệm kỳ, diện tích nuôi tôm UDCNC đạt ha, đạt 71,68% so Kế hoạch KH ha, sản lượng ước đạt tấn, đạt 80,90% Kế hoạch KH tấn. Quan điểm của tỉnh là khai thác tiềm năng, lợi thế để phát triển ngành tôm trở thành một ngành sản xuất hàng hóa, có thương hiệu uy tín, có khả năng cạnh tranh cao trong hội nhập kinh tế quốc tế; khoa học công nghệ là nền tảng của quá trình phát triển và là khâu đột phá để nâng cao năng suất, sản lượng và giá trị ngành tôm của tỉnh. Hình thành và phát triển mạnh các vùng nuôi tôm UDCNC nâng cao giá trị gia tăng với đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, bảo vệ và phát triển nguồn lợi và an sinh xã hội. Để tiếp tục nhân rộng để nâng cao giá trị của con tôm Bến Tre, trong thời gian tới tỉnh tiếp tục khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất dựa trên các hộ/cơ sở nuôi phân tán, nhỏ lẻ hình thành các THT, HTX mục tiêu là mỗi huyện thành lập 1 HTX nuôi tôm UDCNC đạt 100 tỷ đồng/HTX; chọn HTX đủ điều kiện để được chứng nhận vùng nuôi tôm nước lợ UDCNC, nhằm tiếp cận được các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, ngân hàng và đặc biệt là hỗ trợ thực hiện các chứng nhận, các tiêu chuẩn đáp ứng nhu cầu thị trường quốc tế như ASC, BAP… Để hoàn thành các chỉ tiêu của cả nhiệm kỳ, nhất là chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế trong nửa nhiệm kỳ còn lại, tỉnh Bến Tre nhấn mạnh tinh thần đồng lòng, thống nhất cao của các ngành, các cấp. Đoàn kết, thống nhất, nỗ lực phấn đấu, quyết tâm hành động cao nhất để tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nhân dân. Đồng thời, nâng cao năng lực quản lý, điều hành, thực thi công vụ của từng cán bộ, công chức, viên chức để phối hợp giải quyết các nhiệm vụ được nhanh hơn, hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, tỉnh tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh. Tập trung huy động, thu hút nguồn lực đầu tư theo hướng phát triển; thực hiện phân bổ ngân sách có trọng tâm, trọng điểm. Hoàn thiện Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; tổ chức công bố quy hoạch kết hợp với các hoạt động xúc tiến đầu tư để huy động nguồn lực thực hiện theo quy hoạch đã được phê duyệt. Chủ động, tích cực phối hợp thực hiện tốt các hoạt động hợp tác liên kết vùng, tiểu vùng để mở rộng, tối ưu hoá nguồn lực, trọng tâm là TP. Hồ Chí Minh, Tiểu vùng duyên hải phía Đông đồng bằng sông Cửu Long. Cửu Long
giống bưởi da xanh bến tre